Pháp luật Dân sựTin tức pháp luật nổi bậtTư vấn pháp luật

06 thắc mắc thường gặp về giành quyền nuôi con khi ly hôn 2023

Khi giành quyền nuôi con, vợ chồng cần chứng minh được tình hình tài chính cũng như những điều kiện về tinh thần để yêu cầu Tòa án giao con cho mình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

1. Thu nhập bao nhiêu thì được quyền nuôi con khi ly hôn?

Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”

Như vậy, trước hết trong việc giành quyền nuôi con khi ly hôn, Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận của các bên. Do đó, nếu các bên có thỏa thuận thì sẽ được Tòa án công nhận thỏa thuận đó.

Tuy nhiên, nếu không thỏa thuận được, Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để giao con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Ngoài ra, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì Tòa án có căn cứ vào nguyện vọng của con để giao con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi.

Căn cứ quy định này, có thể thấy, hiện nay, pháp luật không có quy định cụ thể về điều kiện cũng như những quyền lợi của con là gì để qua đó xem xét, quyết định giao con cho ai nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Luật chỉ quy định chung là quyền lợi về mọi mặt của con.

Do đó, thu nhập của bố, mẹ cũng chỉ là một trong những tiêu chí để Tòa án căn cứ và xem xét giao con cho ai nuôi dưỡng sau khi “đường ai nấy đi”. Bởi vậy, không có quy định cụ thể ấn định thu nhập bao nhiêu thì sẽ giành được quyền nuôn con.

Do Luật không nêu cụ thể điều kiện cũng như quyền lợi về mọi mặt của con là gì, trong thực tế Tòa án cũng căn cứ vào nhiều khía cạnh như thu nhập của cha, mẹ; điều kiện vật chất, tinh thần, tình yêu thương, thời gian… cha, mẹ giành cho con để xem xét giao con cho ai nuôi dưỡng.

2. Thu nhập không ổn định có được giành quyền nuôi con?

Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, khi xem xét giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, Tòa án sẽ căn cứ vào thỏa thuận của cha và mẹ.

– Nếu ly hôn thuận tình: Vợ chồng có thỏa thuận về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân cũng như nuôi con, cấp dưỡng con… thì Tòa án sẽ thực hiện theo thỏa thuận của hai người. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án sẽ không xem xét đến thu nhập của một trong hai bên.

– Nếu ly hôn đơn phương: Vợ chồng không thống nhất được về việc ly hôn. Kéo theo đó, hai người cũng thường sẽ có tranh chấp về việc nuôi con, giành quyền nuôi con.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con nhưng nếu người mẹ không đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con… thì Tòa án sẽ không giao con cho người mẹ.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 81 Luật này cũng quy định, việc quyết định giao con cho ai căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Tuy nhiên, quyền lợi cụ thể Luật Hôn nhân và Gia đình cũng như các quy định khác của pháp luật không quy định cụ thể.

Trong thực tế, những quyền lợi của con được Tòa án xem xét gồm:

– Điều kiện về vật chất: Có đảm bảo đầy đủ vật chất để chăm sóc, nuôi dưỡng, cho con đi học…

– Điều kiện về tinh thần: Có thời gian chăm sóc, quan tâm, lo lắng, nuôi dưỡng… cho con.

– Điều kiện khác: Có thể chứng minh điều kiện của bản thân tốt cho con như có nhà ở cố định, có môi trường sống lành mạnh, phù hợp và tốt cho sự phát triển của con, có sổ tiết kiệm…

3. Cần chứng minh như thế nào để giành được quyền nuôi con?

Để giành quyền nuôi con, vợ/chồng cần chứng minh được mình đủ những điều kiện sau đây:

(i) Có thu nhập đảm bảo nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất cho con

Đây có thể coi là một trong những yếu tố quan trọng khi cha, mẹ muốn giành quyền nuôi con khi ly hôn. Bởi khi có một cuộc sống đảm bảo, có điều kiện về chất như có thu nhập ổn định thông qua việc công việc ổn định, lương cao, thu nhập ổn định, có sổ tiết kiệm…

Những yếu tố về vật chất này đủ để đảm bảo trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con đầy đủ và cho con được học hành trong môi trường giáo dục tốt nhất. 

(ii) Có thời gian, giành nhiều tình cảm quan tâm, yêu thương con

Ngoài vật chất, yếu tố tinh thần của con cũng là một trong những vấn đề quan trọng. Theo đó, khi bản thân có thời gian chăm sóc con, bên cạnh con, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, không phân biệt đối xử với con… thì sẽ có phần “thắng” trong việc giành quyền nuôi con.

Những bằng chứng trong trường hợp này có thể về thời gian làm việc của người muốn giành quyền nuôi con; đối phương là người thường xuyên đi công tác, thường xuyên đi xa nhà, không có thời gian chăm sóc cho con…

(iii) Chứng minh có nhiều điều kiện khác tốt cho con hơn đối phương

Ngoài yếu tố về vật chất và tinh thần, nhiều khi đương sự cũng cần phải chứng minh các điều kiện khác như có thể tạo môi trường, không gian tốt nhất cho con phát triển…

(iv) Chứng minh đối phương không đáp ứng điều kiện nuôi con trực tiếp

Đây được xem là một trong những biện pháp để Tòa án xem xét điều kiện tốt nhất cho con. Nếu xét về vật chất, tinh thần và điều kiện khác, các đương sự đều có tình huống tương tự nhau thì đây sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để Tòa án xem xét giao cho cho ai.

Những vấn đề cần chứng minh trong trường hợp này có thể kể đến:

– Trong thời gian đang chung sống, đối phương không quan tâm đến con, hay đánh đập, bạo lực với con về tinh thần và thể xác, ngăn cản, không tạo điều kiện cho con được phát triển năng khiếu… ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển toàn diện của con.

– Chứng cứ chứng minh nguyên nhân ly hôn là do lỗi của đối phương ví dụ như ngoại tình, bạo lực gia đình… Qua đó, khẳng định, đối phương là một tấm gương không tốt với con, nếu để con sống chung với đối phương sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của con…

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải cứ liệt kê ra những điều kiện, yếu tố như trên là được mà cha, mẹ cần phải có bằng chứng cụ thể, rõ ràng, đầy đủ sức thuyết phục để Tòa án căn cứ vào đó xem xét, quyết định người trực tiếp nuôi con.

4. Làm sao để yêu cầu hạn chế quyền thăm con sau khi ly hôn?

Sau khi ly hôn, con sẽ được giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, người còn lại thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận của cha, mẹ.

Đồng thời, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ như sau:

– Người được giao trực tiếp nuôi con: Tạo điều kiện tốt nhất để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; tạo điều kiện và không được cản trở người kia thăm non, chăm sóc… con.

– Người không trực tiếp nuôi con: Có nghĩa vụ cấp dưỡng, được thăm con mà không ai được cản trở.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng nêu rõ:

“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

Theo quy định này, có thể thấy, có 02 trường hợp người không trực tiếp nuôi con bị hạn chế quyền thăm con sau khi ly hôn:

– Lạm dụng việc thăm con để cản trở việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người còn lại.

– Lạm dụng việc thăm con để gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người còn lại.

Trong hai trường hợp này, người được giao nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người còn lại.

Nếu người không trực tiếp nuôi con có hành vi cản trở, gây ảnh hưởng xấu đến con sau khi ly hôn thông qua việc thăm con thì để hạn chế quyền thăm con đúng luật, người được giao nuôi con phải gửi yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền để hạn chế quyền thăm con của người này.

5. Làm thế nào để giành lại quyền nuôi con sau khi ly hôn?

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, sau khi ly hôn trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Do đó, theo quy định, người đang trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao lại quyền nuôi con cho người không trực tiếp nuôi con (chồng hoặc vợ cũ), hoặc người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con để giành lại quyền nuôi con. Đồng thời, trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, người thân thích hoặc cơ quan, tổ chức nhà nước có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con (nói cách khác là giành lại quyền nuôi con) được Tòa án giải quyết khi thuộc một trong các căn cứ sau đây:

Một là, cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con.

Theo đó, khi hai vợ chồng thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, hai vợ chông cùng làm đơn thỏa thuận, sau đó yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi đã có sự thảo thuận.

Sau khi nhận được yêu cầu, Tòa án sẽ xem xét và kiểm tra điều kiện nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ là người muốn giành quyền nuôi con, nếu xét thấy việc thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lợi ích của con thì Tòa án sẽ ra quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Hai là, người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo đó, trường hợp vợ hoặc chồng là người không trực tiếp nuôi dưỡng con nhận thấy người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án thay đổi quyền người trực tiếp nuôi con. Điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con được xem xét trên phương diện:

– Về kinh tế: Cha hoặc mẹ là người trực tiếp nuôi dưỡng con phải có điều kiện kinh tế ổn định, đáp ứng đầy đủ về nhu cầu vật chất và điều kiện sống tối thiểu cho con và chính bản thân họ.

– Về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng: Cha hoặc mẹ là người trực tiếp nuôi con là người có đầy đủ hành vi dân sự theo quy định, có thười gian trông nom, giáo dục con cái, chăm sóc, yêu thương con, tạo một tinh thần thoải mái cho con.

Đồng thời, cần lưu ý, trong trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc giành lại quyền nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con.

6. Trường hợp nào được cấm chồng gặp con sau ly hôn?

Theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình, khi ly hôn, con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi mình (gọi tắt là con) sẽ được giao cho một trong hai vợ, chồng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Người được trực tiếp giao nuôi con sẽ có trách nhiệm tạo điều kiện tốt nhất cho con để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Còn người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Cả hai vợ, chồng đều phải tôn trọng việc nuôi dưỡng con của người được trực tiếp nuôi con và việc chăm sóc con của người không trực tiếp nuôi con. Đồng thời, người nào không trực tiếp nuôi con phải thực hiện cấp dưỡng theo thỏa thuận của hai vợ, chồng.

Đặc biệt, tuyệt đối không được cản trở nuôi thăm non con của người không trực tiếp nuôi con. Đây là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con.

Do đó, sau khi ly hôn, nếu con được giao cho vợ nuôi dưỡng, chăm nom, giáo dục thì người vợ tuyệt đối không được cấm chồng cũ thăm con.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *