1Bình luận

100 câu tự luận ôn thi Lý luận Nhà nước và Pháp Luật có đáp án

Sau đây là tổng hợp những câu hỏi ôn tập môn Lý luận Nhà nước và Pháp luật mới nhất, đã có đáp án tham khảo đầy đủ:

Câu 1. Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước?

(i) Nguồn gốc của Nhà nước:

– Theo quan điểm thần học: Thượng đế là người sáng tạo ra nhà nước quyền lực của nhà nước là vĩnh cửu và bất biến.

– Thuyết gia trưởng: Nhà nước là kết quả của sự phát triển của gia đình, quyền lực của nhà nước như quyền gia trưởng của gia đình.

– Thuyết bạo lực: Nhà nước ra đời là kết quả của việc bạo lực này với thị tộc khác

– Thuyết tâm lý: dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm để giải thích của sự ra đời nhà nước

*Theo học thuyết Mác –Lênin:

– Nhà nước ra đời khi có sự phân hóa và đấu tranh giai cấp.

– Quyền lực của nhà nước không phải là vĩnh cửu.

– Nhà nước tồn tại và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự phát triển của nó không còn nữa.

+ Lần 1: ngành chăn nuôi tách ra khỏi ngành trồng trọt thành một ngành kinh tế độc lập.

+ Lần 2: cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi và trồng trọt thủ công nghiệp cũng ra đời và phát triển dẫn đến lần phân công lao động thứ 2 là thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp.

+ Lần 3: sự ra đời của sản xuất hàng hóa làm cho thương nghiệp phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội lần thứ 3 đây là lần phân công lao động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự tan rã của chế động cộng sản nguyên thủy.

(ii) Bản chất của nhà nước: Nhà nước là sản phẩm của giai cấp xã hội

– Quyền lực về kinh tế: Có vai trò rất quan trọng nó cho phép người nắm giữ kinh tế thuộc mình phải chịu sự chi phối của họ về mọi mặt.

– Quyền lực về chính trị: Là bạo lực của các tổ chức này đối với giai cấp khác.

– Quyền lực về tư tưởng: Giai cấp thống trị trong xã hội đã lấy tư tưởng của mình thành hệ tư tưởng trong xã hội .

*Bản chất của xã hội :

– Nhà nước còn bảo vệ lợi ích của người dân trong xã hội.

– Nhà nước là một tổ chức duy nhất có quyền lực chính trị một bộ máy chuyên làm cưỡng chế và chức năng quản lý đặc biệt để duy trì trật tự xã hội.

– Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.

(iii) Chức năng của nhà nước:

– Là các phương diện và những mặt hoạt động của nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ của nhà nước.

– Chức năng đối nội: Là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước diễn ra ở trong nước.

– Chức năng đối ngoại: Là những mặt hoạt động chủ yếu thể hiện với các nhà nước và dân tộc khác.

Hai chức năng của nhà nước là đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định từ tình hình thực hiện các chức năng đối ngoại phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và phải phục vụ cho việc thực hiện các chức năng đối nội. đồng thời việc thực hiện các chức năng đối nội lại có tác dụng trở lại với việc thực hiện các chức năng đối ngoại.

So với các chức năng đối ngoại thì các chức năng đối nội giữ vai trò quyết định. Bởi vì việc thực hiện các chức năng đối nội là việc giải quyết mối quan hệ bên trong. Thực hiện các chức năng đối ngoại là việc giải quyết mối quan hệ bên ngoài. Giải quyết mối quan hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng quyết định đối với việc giải quyết các mối quan hệ bên ngoài.

Câu 2. Quan hệ pháp luật là gì? Trình bày các thành phần của quan hệ pháp luật

Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội. Hình thức pháp lý này xuất hiện trên cơ sở điều chỉnh của quy phạm pháp luật đối với quan hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia quan hệ pháp luật đó đều mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật nói trên quy định.

Thành phần của quan hệ pháp luật gồm:

– Chủ thể của quan hệ pháp luật

– Nội dung của quan hệ pháp luật

– Khách thể của quan hệ pháp luật

– Người là cá nhân có thể là công dân nước ta hoặc cũng có thể là người nước ngoài đang cư trú ở nước ta muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật. Trong một số quan hệ pháp luật, còn đòi hỏi một người trở thành chủ thể phải là người có trình độ văn hóa, chuyên môn nhất định,…

Ví dụ: Muốn trở thành chủ thể của quan hệ lao động trong việc sản xuất, dịch vụ về thực phẩm đòi hỏi người đó không mắc bệnh truyền nhiễm.

– Đối với tổ chức, muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật về kinh tế đòi hỏi tổ chức đó phải được thành lập một cách hợp pháp và có tài sản riêng để hưởng quyền và làm nghĩa vụ về tài sản trong quan hệ pháp luật về kinh tế.

– Bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể :

+ Quyền của chủ thể là khả năng được hành động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước.

+ Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ

Ví dụ: quyền của chủ thể bên kia trả tiền đúng ngày giờ theo quy định của hợp đồng cho vay.

+ Quyền của chủ thể là khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền của mình bị chủ thể bên kia vi phạm.

Ví dụ: như ví dụ trên, nếu bên vay không trả tiền đúng hạn, người cho vay có thể yêu cầu tòa án giải quyết.

– Nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật quy định.

– Sự bắt buộc phải có xử sự bắt buộc nhằm thực hiện quyền của chủ thể bên kia.

– Trong trường hợp này chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp lý,nhà nước đảm bảo bằng sự cưỡng chế.

Ví dụ: một công dân nào đó đến ngã tư gặp đèn đỏ mà vẫn qua đường thì bị công an phạt – nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp này là phải dừng lại không sang ngang nếu vẫn sang ngang thì sẽ bị xử lý hành chính.

– Khách thể của quan hệ pháp luật là cái mà các chủ thể của quan hệ đó hướng tới để tác động.

– Các chủ thể trong quan hệ pháp luật thông qua hành vi của mình hướng tới các đối tượng vật chất, tinh thần, hoặc thực hiện các chính trị như ứng cử bầu cử,…

– Đối tượng mà hình vi các chủ thể trong quan hệ pháp luật thường hướng tới để tác động có thể là lợi ích vật chất, giá trị tinh thần hoặc lợi ích chính trị..

Câu 3. Quy phạm pháp luật là gì? Phân tích cấu trúc của quy phạm pháp luật

(i) Quy phạm pháp luật:

– Là quy tắc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân lao động, nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội.

– Quy phạm pháp luật xã hội là một quy phạm pháp luật.

– Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước.

– Quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống có tính chất bắt buộc.

(ii) Cấu trúc của quy phạm pháp luật:

Một quy phạm pháp luật thường có ba bộ phận chính là giả định, quy định và chế tài.

a. Bộ phận giả định:

– Đây là bộ phận của quy phạm quy định địa điểm thời gian chủ thể, các hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu tồn tại chúng thì phải hành động theo quy tắc mà quy phạm đặt ra.

– Các loại giả định đơn giản hoặc phức tạp giả định xác định và giả định xác định tương đối, giả định trừu tượng…sở dĩ có nhiều loại giả định như vậy vì đời sống thực tế rất phong phú và phức tạp.

– Nhưng để đảm bảo tính xác định chặt chẽ của pháp luật thì giả định dù phù hợp loại nào thì cũng phải có tính xác định tới mức có thể được phù hợp với tính chất của loại giả định đó.

Ví dụ: “Người nào thấy người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng , tuy có điều kiện mà không cứu giúp, dẫn đến hậu quả người đó chết ” ( Điều 102 – Bộ luật hình sự năm 1999) là bộ phận giả thiết của quy phạm

b. Bộ phận quy định:

– Là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật, vì chính đây là quy tắc xử sự thể hiện ý chí nhà nước mà mọi người phải thi hành khi xuất hiện những điều kiện mà phần giả định đặt ra.

– Với ví dụ trên thì bộ phận quy định “tuy có điều kiện mà không cứu giúp” có hàm ý là phải cứu người bị nạn.

– Có nhiều các phân loại phần quy định, mỗi các phân loại cần dựa vào một tiêu chuẩn nhất định.

– Phụ thuộc vào vai trò của chúng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội chúng ta có quy định điều chỉnh bảo vệ quy định định nghĩa, phụ thuộc vào mức độ xác định của quy tắc hanh vi ta có quy định xác định quy định tùy nghi, tùy thuộc vào tính phức tạp của nó mà người ta quy định đơn giản và phức tạp. phụ thuộc vào phương thức thể hiện nội dung ra có hai hệ thống phân loại, .. Vì phần quy định là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật nên cách phân loại này có thể áp dụng để phân loại quy phạm pháp luật nói chung.

c. Bộ phận chế tài:

– Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra những biện pháp tác động mà nhà nước sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật.

– Có nhiều loại chế tài : Tùy theo mức độ xác định ta có chế tài xác định chế tài xác định tương đối, chế tài lựa chọn, theo tính chất các biện pháp được áp dụng, ta cso thể có chế tài hình phạt, chế tài khôi phục pháp luật hoặc chế tài đơn giản, chế tài phức tạp.

Ví dụ: “bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”

Câu 4. Hợp đồng dân sự là gì? Trình bày chủ thể, hình thức, nội dung hợp đồng dân sự?

Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự mua, bán, thuê, mượn, tặng, cho, làm một việc hoặc không làm một việc, hay các thỏa thuận khác nhau mà trong đó có một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.

(i) Chủ thể của hợp đồng dân sự:

Theo pháp luật dân sự thì chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.

– Cá nhân:

+ Cá nhân từ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi được phép tham gia tất cả các hợp đồng dân sự và tự mình chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng đó.

+ Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, được ký kết các hợp đồng nếu tự mình có tài sản để thực hiện hợp đồng đó.

+ Cá nhân dưới 16 tuổi tham gia các hợp đồng có giá trị nhỏ phục vụ nhu cầu tối thiểu của mình.

– Các pháp nhân là chủ thể của hợp đồng dân sự.

+ Một tổ chức có tư cách pháp lý phải có đủ các điều kiện sau đây. Có tài sản riêng, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập

+ Khi tham gia ký kết hợp đồng dân sự, các bên phải tuân thủ nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Không bên nào ép buộc bên nào trong việc ký kết và trong quá trình thực hiện hợp đồng.

(ii) Hình thức ký kết hợp đồng dân sự:

+ Hình thức miệng: Các điều khoản của hợp đồng được thỏa thuận bằng miệng. Sau khi các bên đã thống nhất với nhau về nội dung của hợp đồng bằng miệng, các bên sẽ bắt đầu thực hiện hợp đồng.

+ Hình thức viết: Khi ký hợp đồng, các bên thỏa thuận và thống nhất về nội dung chi tiết của hợp đồng, sau đó lập văn bản viết tay hoặc đánh máy. Các bên cần phải ký tên mình hoặc đại diện hợp pháp ký tên vào văn bản đã lập

+ Hình thức văn bản có chứng nhận: Đối với những hợp đồng mà pháp luật quy định phải có chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước như hợp đồng mua bán nhà ở, buộc các bên phải đến cơ quan công chứng để chứng thực.

+ Các bên của hợp đồng có thể tự mình trực tiếp ký kết và thực hiện hợp đồng hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình ký kết và thực hiện hợp đồng.

(iii) Nội dung ký kết hợp đồng dân sự:

+ Điều khoản cơ bản: gồm các thỏa thuận cần thiết phải có trong hợp đồng mà nếu thiếu nó thì hợp đồng không được ký kết.

+ Điều khoản thông thường: loại điều khoản này đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Các bên có thể thỏa thuận hoặc không thỏa thuận, nhưng bắt buộc phải thực hiện.

+ Điều khoản tùy nghi: Đối với một nghĩa vụ các bên có thể thỏa thuận hai hay nhiều cách thức để thực hiện. Bên có nghĩa vụ có thể lựa chọn các dễ dàng, phù hợp với mình để thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, Luật đã quy định về một nghĩa vụ nào đó những các bên có thể thỏa thuận khác với quy định đó, tuy nhiên không được ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội.

– Khi ký kết hợp đồng, các bên cần phải thỏa thuận từng điều khoản của hợp đồng để cùng nhau thống nhất về nội dung của hợp đồng. Các bên không được dùng quyền lực, địa vị xã hội, … để ép bên kia ký kết hợp đồng. Các điều khoản mà các bên thỏa thuận phải phù hợp với phong tục tập quán, pháp luật, đảm bảo lợi ích riêng và lợi ích chung của xã hội.

Câu 5. Phân tích các giai đoạn tố tụng theo Luật Tố tụng hình sự?

(i) Khởi tố vụ án hình sự:

Là giai đoạn đầu của hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. có dấu hiệu của tội phạm hoặc dựa vào sự tố giác của quần chúng nhân dân để ra quyết định khởi tố.

Có thể bắt xong mới khởi tố đối với những tội nghiêm trọng.

Cơ quan điều tra trong quân đội khởi tố vụ án hình sự với tội phạm thuộc quyền xét xử của tòa án quân sự.

(ii) Điều tra vụ án hình sự:

Là giai đoạn thứ 2 của tố tụng hình sự, cơ quan điều tra được sử dụng mọi biện pháp mà luật tố tụng hình sự quy định để thu thập thông các chứng cứ nhằm xác định sự việc phạm tội và con người phạm tội làm cơ sở cho việc truy tố và xử lý tội phạm.Ke biên thu giữ tài sản và tạo điều kiện cần thiết khác theo pháp luật để đảm bảo việc bồi thường thiệt hại sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

+ Trong điều kiện đặc biệt có thể bắt người: bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã

Thời gian điều tra tối đa với cấp huyện là 8 tháng, cấp tỉnh là 12 tháng, tòa án nhân dân cấp cao là 16 tháng.

(iii) Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:

Giai đoạn này bắt đầu từ ngày tòa án nhận được hồ sơ do viện kiểm sát chuyển sang. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại, yêu cầu của những người tham gia tố tụng, tiến hành các công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa và phải đưa ra một trong các quyết định sau:

+ Đưa vụ án ra xét xử.

+ Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung.

+ Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.

Phiên tòa sơ thẩm được tiến hành qua các bước: khai mạc phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.

(iv) Giai đoạn xét xử phúc thẩm:

– Phúc thẩm: Là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Giai đoạn này có nhiệm vụ kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm, sửa chữa những sai lầm mà có thể tòa án sơ thẩm mắc phải. Giai đoạn này là giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự. Tòa án phúc thẩm có quyền quyết định:

+ Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

+ Sửa bản án sơ thẩm.

+ Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

+ Thời hạn kháng cáo của bị cáo và đương sự là 15 ngày kể từ ngày tuyên án và thời hạn kháng nghị của viện kiểm sát cùng cấp 15 ngày, viện kiểm sát cấp trên là 30 ngày. Sau đó bản án có hiệu lực.

(v) Thi hành án hình sự:

Là giai đoạn cuối cùng của tố tụng hình sự nhằm thi hành các bản án, và quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án.

+ Công an huyện, chính quyền, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ thi hành án hoặc quyết định của tòa án, báo cáo cho chánh án tòa án đã ra quyết định thi hành án

(vi) Giám đốc thẩm, tái thẩm:

– Giám đốc thẩm là xem xét lại bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật trong việc xét xử vụ án.

+ Căn cứ kháng nghị là: việc điều tra xét hỏi ở phiên tòa bị phiến diện, không đầy đủ, kết luận của bản án hoặc quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.

+ Có sự vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong điều tra truy tố, xét xử hoặc có sai phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng bộ luật hình sự.

– Tái thẩm là thủ tục đặc biệt áp dụng đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị, khi phát hiện những tình tiết mới có thể thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định của tòa án không biết khi ra quyết định đó

Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, chánh án tòa án nhân dân tối cao có quyền kháng nghị tất cả các bản án.

Câu 6. Trình bày các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới?

Với tư cách là các trường phái pháp luật, trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trong đó có ba hệ thống cơ bản là luật chung Anh – Mỹ, luật châu Âu lục địa và luật Hồi giáo.

(i) Hệ thống luật chung Anh – Mỹ (Common Law)

Đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật này là sử dụng các án lệ làm nguồn của pháp luật, theo đó bản án của tòa đã tuyên có thể được viện dẫn để xét xử những vụ việc có tình tiết tương tự xảy ra sau đó. Theo nguyên tắc này, thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người ban hành pháp luật. Với đặc điểm này nên hệ thống luật chung còn được gọi là hệ thống luật án lệ. 

Bên cạnh luật án lệ, hệ thống luật chung còn có đặc điểm khác là sử dụng luật công bình (equity law). Trong trường hợp không có án lệ thì thẩm phán sẽ sáng tạo luật để xét xử. Việc sáng tạo này phải dựa trên lẽ công bằng tự nhiên, phù hợp với lương tâm và đạo đức của con người. Hiện nay, các quốc gia thuộc hệ thống luật án lệ đã ban hành các quy định trong việc kết hợp áp dụng luật chung và luật công bình.

Ưu điểm của hệ thống luật chung là tạo ra sự linh hoạt trong xét xử bởi thẩm phán có thể vừa xét xử vừa ban hành pháp luật. Tuy nhiên, hệ thống này tạo ra sự khó hiểu, phức tạp và người dân khó tiếp cận được các quy định của pháp luật.

Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, các nước thuộc hệ thống luật án lệ đã và đang thừa nhận sự tồn tại của các văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là nguồn của pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh doanh, thương mại.

Mối quan hệ giữa án lệ và văn bản quy phạm pháp luật được xử lý theo hướng ưu tiên áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trước, chỉ áp dụng án lệ nếu không có luật thành văn.

Hội nhập quốc tế đã làm cho các hệ thống pháp luật không tồn tại biệt lập mà có sự tiếp thu đặc điểm của nhau như phân tích ở trên.

(ii) Hệ thống luật châu Âu lục địa (Continental Law)

Hệ thống luật châu Âu lục địa có đặc trưng là được xây dựng trên tinh thần tự do kinh doanh và tự do cá nhân, thừa nhận chế độ tư hữu và tự do khế ước.

Hệ thống  pháp luật này sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật làm nguồn chủ yếu, tức là các quy định pháp luật thường được thể hiện trong các văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Chính vì vậy, so với hệ thống luật án lệ thì hệ thống dân luật có ưu điểm là dễ hiểu, dễ áp dụng do các quy định được thể hiện rõ ràng trong các văn bản.

Tuy nhiên, hệ thống này có hạn chế là việc áp dụng pháp luật không linh hoạt, cứng nhắc do pháp luật thành văn mang tính ổn định tương đối trong khi các quan hệ xã hội thì không ngừng vận động và phát triển. 

Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa dẫn đến sự giao thoa lẫn nhau giữa các hệ thống pháp luật, nên từ cuối thế kỷ 20, các quốc gia theo hệ thống luật châu Âu lục địa cũng thừa nhận ở mức độ nhất định án lệ và các học thuyết pháp lý với tư cách là nguồn của pháp luật.

(iii) Hệ thống luật Hồi giáo (Islamic Law)

Hệ thống pháp luật này có đặc điểm là chứa đựng nhiều quy định mang tính đạo đức và tôn giáo mà ít quy định về thương mại và kinh doanh. Hơn nữa, những quy định pháp luật của hệ thống này không thay đổi qua hàng nghìn năm mà không sửa đổi hoặc bổ sung. Điều này không phải vì hệ thống Islam giáo đã quá hoàn thiện mà do giới luật gia thuộc hệ thống pháp luật này chủ trương “đóng cửa” đối với các hệ thống pháp luật khác. Chính vì vậy, hiện nay hệ thống này gặp không ít khó khăn khi xét xử các vụ việc phát sinh trong điều kiện mới.

Câu 7. Trình bày chủ thể, khách thể, nội dung của quan hệ pháp luật?

Quan hệ pháp luật là quan hệ giữa các chủ thể, thông qua việc các chủ thể thực hiện những quyền và nghĩa vụ nhất định để đạt được những mục đích nhất định. Chính vì vậy, quan hệ pháp luật được cấu thành bởi ba yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung.

(i) Chủ thể của quan hệ pháp luật là những cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật để thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.

Năng lực chủ thể:

Một cá nhân hoặc tổ chức chỉ trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật nếu có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể pháp luật bao gồm năng lực pháp luật và năng lực  hành vi:

– Năng lực pháp luật là khả năng được hưởng quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lý mà Nhà nước quy định cho các cá nhân hoặc tổ chức nhất định.

– Năng lực hành vi là khả năng của cá nhân, tổ chức được Nhà nước thừa nhận mà với chủ thể đó có thể bằng chính hành vi của bản thân mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể pháp luật, có mối liên hệ bổ sung cho nhau. Nếu chủ thể chỉ có năng lực pháp luật thì chỉ tham gia một cách thụ động vào các quan hệ pháp luật. Năng lực hành vi làm cho chủ thể tham gia một cách chủ động vào các quan hệ pháp luật bằng chính hành vi của họ. Ngược lại, năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành vi, theo đó một chủ thể chỉ có năng lực hành vi trên cơ sở của năng lực pháp luật.

Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật:

Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và trong nhiều trường hợp Nhà nước cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật:

– Cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch với điều kiện phải có năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật. Công dân Việt Nam là chủ thể của hầu hết các ngành luật. Bên cạnh đó, người nước ngoài cũng có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam.

– Tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là pháp nhân hoặc không phải pháp nhân. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, tổ chức chỉ được coi là pháp nhân nếu thỏa mãn đồng thời các dấu hiệu sau:

+ Được thành lập hợp pháp; 

+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; 

+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; 

+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

– Nhà nước: Bên cạnh các chủ thể trên, trong nhiều trường hợp, Nhà nước cũng được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật, nhưng đó là chủ thể đặc biệt. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, là chủ sở hữu lớn nhất trong  xã hội.

(ii) Nội dung của quan hệ pháp luật

Nội dung của quan hệ pháp luật chính là quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đó.

Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ chủ thể được hình thành bằng hai con đường: Thứ nhất là theo quy định của pháp luật về năng lực chủ thể và thứ hai là theo thỏa thuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật.

Quyền và nghĩa vụ chủ thể: Là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép.

Chủ thể thực hiện quyền của mình có thể bằng một trong các hình thức sau: 

– Xử sự theo cách thức nhất định phù hợp với quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên. 

– Yêu cầu chủ thể khác tôn trọng hoặc chấm dứt hành vi cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ. 

– Yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình. 

– Ủy quyền cho người khác thực hiện quyền của mình.

Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng một trong các hình thức sau:

– Chủ động thực hiện các hành vi nhất định theo yêu cầu của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên. 

– Kiềm chế không thực hiện hành vi nhất định phù hợp với quy định của pháp luật và sự thỏa thuận giữa các bên. 

– Gánh chịu các hậu quả bất lợi khi không thực hiện nghĩa vụ chủ thể.

(iii) Khách thể của quan hệ pháp luật

Khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Như vậy, khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà vì chúng các chủ thể pháp luật mới thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Các lợi ích mà chủ thể hướng đến rất đa dạng, có thể là lợi ích vật chất như tài sản, của cải, cũng có thể là lợi ích phi vật  chất như danh dự, nhân thân, các hoạt động xã hội…

Câu 8. Cách phân biệt quy định, giả định, chế tài trong một Quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật được cấu thành từ ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Chúng tạo thành  một thể thống nhất để trả lời cho các câu hỏi chủ thể nào, trong trường hợp nhất định  phải xử sự ra sao, nếu không sẽ phải gánh chịu hậu quả như thế nào. Mỗi yếu tố cấu thành quy phạm pháp luật sẽ trả lời cho từng câu hỏi nói trên.

(i) Giả định

Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể nhất định. 

Như vậy, phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi ai? Trong điều kiện, hoàn cảnh nào?

Giả định của quy phạm pháp luật gồm hai loại là giả định giản đơn − chỉ nêu lên một hoàn cảnh, điều kiện và giả định phức tạp − nêu lên nhiều điều kiện hoàn cảnh khác nhau.

(ii) Quy định

Quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những quy tắc xử sự mà các chủ thể có thể hoặc buộc phải tuân theo khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật. 

Như vậy, phần quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi phải làm gì? Được làm gì? Không được làm gì? Phải làm như thế nào? Phần này chứa đựng những mệnh lệnh, chỉ dẫn của Nhà nước đối với các chủ thể, qua đó thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Phần quy định của quy phạm pháp luật có thể tồn tại dưới hai dạng: Quy định dứt khoát và quy định tùy nghi. Quy định dứt khoát là loại quy định chỉ nêu ra một cách xử sự để chủ thể phải tuân theo mà không có sự lựa chọn nào khác.

(iii) Chế tài

Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra những biện pháp tác động  dự kiến sẽ áp dụng đối với các chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh đã nêu ra ở phần quy định của quy phạm pháp luật. 

Phần chế tài của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng những biện pháp nào đối với chủ thể vi phạm pháp luật và chủ thể vi phạm pháp luật sẽ phải gánh chịu hậu quả gì? Phần này thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật và là điều kiện đảm bảo cho những quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế.

Phân loại chế tài:

– Dựa vào cách thức nêu lên hậu quả phải gánh chịu có hai loại:

+ Chế tài cố định: nêu chính xác biện pháp tác động sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

+ Chế tài không cố định là chế tài không nêu lên một cách chính xác, dứt khoát hậu quả phải gánh chịu mà chỉ nêu lên mức cao nhất và mức thấp nhất của  biện pháp tác động.

– Dựa vào tính chất của các biện pháp tác động và chủ thể có thẩm quyền áp dụng, chế tài được chia thành chế tài hành chính, chế tài hình sự, chế tài kỷ luật và chế tài dân sự:

+ Chế tài hành chính là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật hành chính.

+ Chế tài hình sự là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật bị coi là tội phạm.

+ Chế tài kỷ luật là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các  chủ thể có hành vi vi phạm quy định về kỷ luật lao động, học tập, công tác  hoặc vi phạm pháp luật đã bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận bằng văn bản về hành vi vi phạm pháp luật.

+ Chế tài kỷ luật là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm quy định về kỷ luật lao động, học tập, công tác  hoặc vi phạm pháp luật đã bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận bằng văn bản về hành vi vi phạm pháp luật. Các chế tài kỷ

luật bao gồm: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc. 

+ Chế tài dân sự là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật dân sự.

Câu 9. Trình bày các loại hình phạt đối với tội phạm theo Bộ luật hình sự?

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Các hình phạt đối với người phạm tội theo Bộ luật hình sự bao gồm:

Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.

Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

(i) Cảnh cáo

Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

(ii) Phạt tiền

Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

– Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;

– Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định.

Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật hình sự.

(iii) Cải tạo không giam giữ

Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

(iv) Trục xuất

Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.

(v) Tù có thời hạn

Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

(vi) Tù chung thân

Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.

Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

(vii) Tử hình

Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

– Người đủ 75 tuổi trở lên;

– Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

(viii) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.

Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

(ix) Cấm cư trú

Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định.

Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

(x) Quản chế

Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật này và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.

Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

(xi) Tước một số quyền công dân

Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau đây:

– Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;

– Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.

Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

(xii) Tịch thu tài sản

Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

Câu 10. Pháp luật là gì? Phân tích nguồn gốc, bản chất, vai trò của pháp luật

Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

(i) Nguồn gốc của pháp luật:

– Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật nhưng lại tồn tại những quy tắc ứng xử sự chung thống nhất. đó là những tập quán và các tín điều tôn giáo.

– Các quy tắc tập quán có đặc điểm:

+ Các tập quán này hình thành một cách tự phát qua quá trình con người sống chung, lao động chung. Dần dần các quy tắc này được xã hội chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung.

+ Các quy tắc tập quán thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội, do đó được mọi người tự giác tuân theo. Nếu có ai không tuân theo thì bị cả xã hội lên án, dư luận xã hội buộc họ phải tuân theo.

Chính vì thế tuy chưa có pháp luật nhưng trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trật tự xã hội vẫn được duy trì.

– Khi chế độ tư hữu xuất hiện xã hội phân chia thành giai cấp quy tắc tập quán không còn phù hợp nữa thì tập quán thể hiện ý chí chung của mọi người. trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời. để duy trì trật tự thì nhà nước cần có pháp luật để duy trì trật tự xã hội. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước không tách rời nhà nước và đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.

(ii) Bản chất của Pháp luật:

– Bản chất của giai cấp của pháp luật : pháp luật là những quy tắc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp nào nắm quyền lực nhà nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó được phản ánh trong pháp luật.

– Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là sự phản ánh một cách tùy tiện. Nội dung của ý chí này phải phù hợp với quan hệ kinh tế xã hội của nhà nước.

– Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích của nó. Mục đích của pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội tuân theo một cách trật tự phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước,

(iii) Vai trò của pháp luật:

– Pháp luật là phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Duy trì thiết lập củng cố tăng cường quyền lực nhà nước.

– Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Pháp luật góp phần tạo dựng mối quan hệ mới tăng cường mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia.

– Bảo vệ và quyền lợi ích hợp pháp của mọi người dân trong xã hội

– Pháp luật được xây dựng dựa trên hoàn cảnh lịch sử địa lý của dân tộc

– Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ các quyền của công dân, ngăn ngừa những biểu hiện lộng quyền, thiếu trách nhiệm đối với công dân. Đồng thời đảm bảo cho mỗi công dân thực hiện đầy đủ quyền và các nghĩa vụ đối với nhà nước và các công dân khác.

Như vậy, bằng việc quy định trong pháp luật các quyền và nghĩa vụ của công dân mà pháp luật trở thành phương tiện để công dân thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của người khác, kể cả từ phía nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.

Câu 11. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì? Phân tích?

(i) Pháp chế xã hội chủ nghĩa

– Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung quan trọng của học thuyết Mác – Lênin và nhà nước và pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa.

– Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa .

– Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội và các đoàn thể quần chúng.

– Nguyên tắc xử sự của công dân.

– Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

==> Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của cuộc sống chính trị xã hội, tổ chức xã hội, và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.

(ii) Những yêu cầu cơ bản pháp chế xã hội chủ nghĩa:

– Tôn trọng tối cao của Hiến pháp và luật: Đó là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho hệ thống phát triển ngày càng hoàn thiện, làm cơ sở để thiết lập trật pháp luật củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

– Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc: Thực hiện tốt yêu cầu này là điều kiện quan trọng để thiết lập một trật tự kỷ cương trong đó cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên.

– Các cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một các tích cực, chủ động và có hiệu quả: một trong những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải có những biện pháp nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. nhất là tội phạm.

– Không tách rời công tác pháp chế với văn hóa : trình độ văn hóa nói chung và trình độ pháp lý nói riêng của viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trình độ văn hóa của công chungs càng cao thì pháp chế càng được củng cố vững mạnh. Vì vậy, phải gắn công tắc pháp chế với việc nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng của các viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân.

(iii) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa:

– Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó các biện pháp cơ bản như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế, đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, tăng cường kiểm công tác kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật.

– Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế

+ Là biện pháp cơ bản bao trùm xuyên suốt trong quá trình củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

+ Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.

– Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có một hệ thống kịp thời thể chế hóa các chủ trương, chính sách đường lối của Đảng.

– Thường xuyên tiến hành rà soát, hệ thống hóa pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp

– Kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật.

– Có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể…

– Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống

– Đây là biện pháp gồm nhiều mặt:

+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý .

+ Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật.

– Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ phẩm chất chính trị và khả năng công tác để sắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp luật.

– Tăng cường kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật là biện pháp nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Câu 12. Trách nhiệm pháp lý là gì? Đặc điểm và các loại trách nhiệm pháp lý

Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định ở chế tài các quy định pháp luật.

Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý:

– Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý và vi phạm pháp luật. Chỉ khi có vi phạm pháp luật mới áp dụng trách nhiệm pháp lý.

– Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định do cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành trên cơ sở xem xét, giải quyết vụ việc vi phạm đã có hiệu lực pháp luật.

– Các biện pháp trách nhiệm pháp lý là một loại biện pháp cưỡng chế nhà nước đặc thù : mang tính chất trừng phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại và đồng thời được áp dụng chỉ trên cơ sở những quyết định của cơ quan hoặc người có thẩm quyền.

Có 4 loại trách nhiệm pháp lý:

– Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự.

– Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan quản lý nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành chính.

– Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối với mọi chủ thế khi họ vi phạm pháp luật dân sự.

– Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp,… áp dụng đối với cán bộ, công nhân viên của cơ quan xí nghiệp mình khi họ vi phạm nội quy, quy chế của nội bộ cơ quan.

Câu 13. Vi phạm pháp luật là gì? Phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do các chủ thể có năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại cho xã hội.

Ví dụ: Một em bé 6 tuổi hoặc một người điên đốt cháy nhà người khác thì đó là hành vi trái pháp luật, nhưng không phải là vi phạm pháp luật vì thiếu yếu tố năng lực trách nhiệm pháp lý.

Cấu thành của vi phạm pháp luật:

– Yếu tố thứ nhất: là mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Yếu tố này bao gồm các dấu hiệu : hành vi trái pháp luật hậu quả, quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.

– Yếu tố thứ 2 : là khách thể của vi phạm pháp luật. Khách thể của vi phạm là quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất của khách thể là một tiêu chí quan trọng đẻ xác định mức độ nguy hiểm của hành vi. VD hành vi xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tính mạng con người nguy hiểm nhiều hơn hành vi gây rối trật tự công cộng.

– Yếu tố thứ 3 là mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan gồm các dấu hiệu thể hiện trạng thái tâm lý của chủ thể, khía cạnh bên trong của vi phạm đó là các dấu hiệu lỗi của vi phạm thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý, động cơ, mục đích vi phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng để định tội danh trong luật hình sự nhưng đối với nhiều loại hành vi hành chính thì nó không quan trọng lắm.

– Yếu tố thứ 4 là chủ thể của vi phạm pháp luật. Chủ thể của vi phạm pháp luật phải có năng lực hành vi. Đó có thể là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Đã là cơ quan tổ chức thì luôn có năng lực hành vi nhưng chủ thể cá nhân thì điều quan trọng là phải xác định họ có năng lực hành vi hay không.

Nếu là trẻ em dưới 14 tuổi thì không được coi là chủ thể vi phạm hành chính và tội phạm. Dưới 16 tuổi nói chúng không được coi là chủ thể vi phạm kỷ luật lao động bởi vì họ được pháp luật coi là chưa có năng lực hành vi trong lĩnh vực pháp luật tương ứng… người điên , tâm thần,… cũng được coi là không có năng lực hành vi.

Câu 14. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế

Pháp luật là yếu tố thượng tầng xã hội, kinh tế thuộc về yếu tố của cơ sở hạ tầng. Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng của pháp luật. Cơ sở hạ tầng là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật.

Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ với kinh tế.

Quan hệ xã hội không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó.

Sự lệ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:

– Cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định thành phần cơ cấu của các ngành luật.

– Tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất, nội dung của các quan hệ pháp luật, tính chất phương pháp điều chỉnh của pháp luật.

– Chế độ kinh tế, thành phần kinh tế tác động quyết định đến sự hình thành, tồn tại của các cơ quan, tổ chức và thể chế pháp lý phương thức hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và thủ tục pháp lý.

Sự tác động ngược trở lại của pháp luật đối với kinh tế:

– Tác động tích cực: Nếu pháp luật ban hành phù hợp với các quy luật kinh tế – xã hội thì nó tác động tích cực đến sự phát triển đến các quá trình kinh tế cũng như cơ cấu của nền kinh tế.

Khi pháp luật thể hiện phù hợp với nền kinh tế, pháp luật thể hiện ý chí giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ kinh tế dẫn tới nền kinh tế phát triển, pháp luật tạo hành lang tốt cho kinh tế phát triển.

– Tác động tiêu cực: Khi pháp luật không phù hợp với quy luật phát triển kinh tế – xã hội được ban hành do ý chí chủ quan của con người thì nó sẽ kìm hãm toàn bộ nền kinh tế hoặc một bộ phận nền kinh tế (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bằng các mệnh lệnh, quy định hành chính đối với các hoạt động kinh tế, đã làm nền kinh tế trì trệ dẫn đến khủng hoảng).

Trong bước quá độ chuyển từ cơ chế kinh tế này sang cơ chế kinh tế khác, các quan hệ kinh tế cũ chưa hoàn toàn mất đi, quan hệ kinh tế mới đang hình thành và phát triển nhưng chưa ổn định thì pháp luật có thể tác động kích thích phát triển nền kinh tế ở những mặt, lĩnh vực này nhưng lại kìm hãm sự phát triển nền kinh tế ở những mặt, lĩnh vực khác.

Câu 15. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị

Pháp luật là Hệ thống các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Còn Chính trị là toàn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của Nhà nước; sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước.

Giữa pháp luật và chính trị có mối liên hệ mật thiết với nhau, cụ thể như sau:

(i) Mối quan hệ của pháp luật và chính trị trong việc hình thành, tổ chức bộ máy nhà nước:

– Bộ máy nhà nước là toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến địa phương bao gồm nhiều loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…là một thiết chế phức tạp nhiều bộ phận. Để xác định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp để thực hiện một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước cần phải thực hiện trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật.

– Khi một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức chưa đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc xác lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì dễ dẫn tới tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, pháp luật còn quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước.

– Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng tác động đến pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh đại diện cho giai cấp tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra được một hệ thống pháp luật phù hợp với đất nước, thể hiện đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội.

(ii) Mối quan hệ của pháp luật và chính trị trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia:

Pháp luật luôn tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia. Sự phát triển của quan hệ bang giao đòi hỏi pháp luật của các nước thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ thay đổi của mỗi quốc gia.

(iii) Pháp luật với đường lối chính sách của giai cấp thống trị:

Pháp luật thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng cầm quyền tức là làm cho ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí của nhà nước. Đường lối chính sách của đảng có vai trò chỉ đạo nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật.

Câu 16. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước

Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình.

Còn Pháp luật là Hệ thống các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Giữa nhà nước và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, cụ thể như sau:

– Nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thể hiện ở sự tác động qua lại giữa nhà nước và pháp luật.

– Chúng vừa có sự phụ thuộc lẫn nhau vừa có sự độc lập tương đối với nhau, những đặc điểm này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong xây dựng và thực thi pháp luật: bộ máy nhà nước sử dụng Pháp luật là công cụ đắc lực để quản lý xã hội, pháp luật lại cần đến bộ máy nhà nước để bảo vệ và đảm bảo thực thi pháp luật.

– Và sự tác động qua lại lẫn nhau của cả nhà nước và pháp luật, có thể là tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ này hay mức độ khác. Ví như nếu nhà nước không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của người dân sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống pháp luật như mất niềm tin vào pháp luật, người dân sẽ không còn nghe theo pháp luật nữa.

– Cả nhà nước và pháp luật đều có cho mình những tiền đề xã hội giống nhau để xuất hiện cũng như phát triển. nhà nước và pháp luật không thể tồn tại thiếu nhau, nhà nước không thể quản lý xã hội nếu thiếu pháp luật, và cũng như vậy pháp luật không thể thực hiện được chức năng của mình nếu thiếu sự đảm bảo của nhà nước.

Câu 17. Kiểu nhà nước là gì? Có mấy kiểu nhà nước? Đó là kiểu nào?

Kiểu nhà nước là sự phân loại(phân định), xếp loại các nhà nước vào những nhóm nhất định trên cơ sở những tiêu chí nhất định – những điểm tương đồng về đặc trưng chung trong quá trình phát triển.

Có bốn kiểu nhà nước bao gồm:

– Kiểu nhà nước chủ nô: chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và nô lệ (đặc điểm quan trọng)

– Kiểu nhà nước phong kiến: hầu hết các địa chủ phong kiến, áp dụng nguyên tắc tương ứng giữa quyền lực được trao và ruộng đất được cấp.

– Kiểu nhà nước tư sản: xác định hình thức pháp lý nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Bản chất: nhà nước tư sản vẫn là công cụ trong tay giai cấp tư sản để thực hiện nền chuyên chính tư sản đối với toàn xã hội.

– Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa: là nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với các kiểu nhà nước của giai cấp bóc lột. Sứ mệnh của nhà nước XHCN, tất cả vì sự bình đẳng, công bằng và sự pt bền vững của xã hội.

Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là quy luật tất yếu. Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế – xã hội.

Câu 18. Kiểu pháp luật là gì? Có mấy kiểu pháp luật? Đó là kiểu nào?

Kiểu pháp luật là thuật ngữ chỉ những nền pháp luật cùng có chung một bản chất giai cấp, cùng thể hiện ý chí, phản ánh lợi ích cơ bản và là công cụ bảo vệ quyền lợi cơ bản của giai cấp cầm quyền.

Tương ứng với mỗi kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa thì có bốn kiểu pháp luật: kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ​, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa, cụ thể:

– Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ là sự phi nhân tính, coi bộ phận lớn dân cư – những người nô lệ, chỉ là công cụ biết nói của chủ nô, cho phép chủ nô có toàn quyền mua hay bán, sử dụng hay giết bỏ, làm quà tặng hay biếu xén, thế chấp hay thừa kế, được trừng trị bằng những hình phạt tàn khốc đối với những nô lệ bỏ trốn hay có âm mưu chống lại.

– Kiểu pháp luật phong kiến phân chia xã hội thành các giai cấp, đẳng cấp với những quyền lợi, nghĩa vụ khác nhau tùy theo địa vị xã hội; xác nhận và bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của các tầng lớp phong kiến, quý tộc, duy trì tình trạng nửa nô lệ của những nông nô, tá điền, những nghĩa vụ nặng nề và những hình phạt tàn khốc đối với họ.

– Kiểu pháp luật tư sản giải phóng con người khỏi mọi sự lệ thuộc phong kiến, tuyên bố mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, thừa nhận các quyền tự do kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khẳng định quyền tư hữu là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, củng cố phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Trong điều kiện của chế độ tư sản, những người lao động phần lớn chỉ có sự bình đẳng và những quyền pháp lý hình thức do không có những điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện. Đó chính là tính hình thức và giả tạo của pháp luật tư sản. Pháp luật tư sản là một hệ thống phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu cầu về quản lí xã hội của giai cấp tư sản.

– Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, các lợi ích chính đáng của mọi giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau trong xã hội.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa trở thành phương tiện lãnh đạo nhà nước và xã hội của chính đảng của giai cấp công nhân, là công cụ có hiệu quả để quản lí xã hội, là chỗ dựa của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực của mình, là vũ khí sắc bén để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Câu 19. Nhà nước pháp quyền là gì? Đặc điểm của nhà nước pháp quyền là gì?

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.

Nhà nước pháp quyền có các đặc điểm cơ bản sau:

– Có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và đạo đức tiến bộ của nhân loại.

– Pháp luật chiếm vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; pháp luật phải khách quan, nhân đạo, công bằng, phù hợp với đạo đức xã hội, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người.

– Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm.

Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức, kể cả nhà nước, nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, tinh thần cho cá nhân về các quyết định và hành vi sai trái của mình.

– Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được nhà nước được tôn trọng, đảm bảo thực hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.

– Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở phân chia quyền lực nhà nước, các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân chia một cách rõ ràng, khoa học, dùng quyền lực để kiểm tra, giám sát quyền lực.

Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức hoạt động theo một cơ chế đảm bảo sự kiểm soát quyền lực nhà nước.

– Nhà nước pháp quyền tồn tại trên cơ sở một xã hội công dân phát triển lành mạnh, đảm bảo tự do của các cá nhân và các tổ chức của họ trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.

– Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hòa đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận.

TIẾP TỤC CẬP NHẬT…

One Response

  1. Bùi Quốc cảnh

Ý kiến