Các hình thức hệ thống hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là việc tập hợp, sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật đã được rà soát, xác định còn hiệu lực theo các tiêu chí của pháp luật.
Công tác hệ thống hóa pháp luật cho phép các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có sự nhìn nhận tổng quát về pháp luật hiện hành, phát hiện những quan điểm không phù hợp, mâu thuẫn ,chồng chéo và những lỗ hổng của sự điều chỉnh pháp luật, từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện.
Hệ thống hóa pháp luật còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật,thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với hoạt động bảo vệ pháp luật.
Sự sắp xếp có trình tự và hệ thống những quy phạm pháp luật cho phép các cơ quan có thẩm quyền và các đơn vị, cá nhân dễ dàng truy cứu, tìm kiếm những quy phạm pháp luật cần thiết, làm sáng tỏ tư tưởng của chúng và áp dụng được đúng đắn để giải quyết những vụ việc cụ thể.
Hệ thống hóa pháp luật nhằm mục đích:
– Thứ nhất, tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cân đối, hoàn chỉnh, thống nhất, trong đó vai trò của các đạo luật ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Thứ hai, khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những lỗ hổng của hệ thống pháp luật.
– Thứ ba, làm cho nội dung pháp luật phù hợp với những yêu cầu của đời sống, có hình thức rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
Có hai hình thức hệ thống hóa pháp luật, đó là tập hợp hóa và pháp điển hóa.
(i) Tập hợp hóa
Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp các văn bản pháp quy theo từng vấn đề (theo cơ quan ban hành, theo thời gian ban hành, theo cấp độ hiệu lực pháp lý…) thành tập luật lệ hiện hành. Các đặc trưng của hình thức hệ thống hóa này thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
– Hình thức sắp xếp này không làm thay đổi phạm vi hiệu lực của các văn bản đó.Trong tập luật lệ này, các quy phạm, các chương, điều hoặc toàn bộ văn bản pháp quy được trích dẫn hoặc đưa vào toàn bộ theo nguyên bản.
– Sự liên kết các quy phạm được hệ thống hóa theo vấn đề không tạo nên chế định pháp lý mới mà chỉ dừng lại ở việc tập hợp hóa các văn bản theo vấn đề đó. Toàn bộ cấu trúc hình thức của mỗi quy phạm, mỗi chương, điều trong bản gốc quy phạm nào đó được đánh số thứ tự chương, điều, mục, khoản như thế nào thì ở trong tập luật lệ hiện hành vẫn giữ nguyên thứ tự đó như trong bản gốc.
– Hình thức này không làm thay đổi nội dung, không bổ sung những quy định mới mà chỉ nhằm loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là mâu thuẫn với văn bản của cấp trên.
– Việc thực hiện hệ thống hóa này có thể do bất cứ cá nhân ,tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước thực hiện. Các cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước chỉ cần tập hợp, thu thập văn bản, tiến hành rà soát, sắp xếp chúng theo vấn đề và sau đó quyết định xuất bản tập hệ thống hóa pháp luật hiện hành.
(ii) Pháp điển hóa
Pháp điển hóa là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong đó không những tập hợp các văn bản đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những quy phạm mới để thay thế cho các quy phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống được phát hiện trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi các quy phạm hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng… Kết quả của công việc pháp điển là một văn bản quy phạm pháp luật ra đời. Đó là một bộ luật tương ứng với một ngành luật nhất định hay một bản điều lệ tập hợp các quy phạm cho một lĩnh vực nhất định, trong đó các kết quả của nó là một văn bản pháp luật mới hoặc có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc rộng hơn về phạm vi điều chỉnh, hoàn chỉnh hơn về kỹ thuật lập pháp hoặc đồng thời đạt được tất cả các yêu cầu đó.
Hai hình thức hệ thống hóa pháp luật trên là những công việc phức tạp, tỉ mỉ, đòi hỏi phải tiến hành phù hợp với những yêu cầu của kỹ thuật lập pháp. Kỹ thuật lập pháp bao gồm những quy tắc, những phương pháp, biện pháp khoa học xử lý tư liệu quy phạm và cấu tạo, xây dựng dự án văn bản quy phạm pháp luật.