0Bình luận

Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

Trong quá trình vận động, phát triển của thế giới khách quan có rất nhiều sự biến, rất nhiều quá trình. Có những sự biến, quá trình xảy ra là do bản chất, do nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định, do đó cái tất nhiên sẽ xuất hiện. Nhưng có những sự biến, những quá trình xảy ra không phải do bản chất của kết cấu vật chất, mà do nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó chúng có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, đó là cái ngẫu nhiên. 

1. Khái niệm 

Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó nhất định phải xảy ra như thế này chứ không thể xảy ra như thế khác, nó là cái tương đối ổn định.

Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định mà do những nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định; do đó, nó có thể xuất hiện như thế này, hoặc xuất hiện như thế khác, nó là cái không ổn định.

Ví du, xuất phát từ mối liên hệ bản chất bên trong của hạt lúa, nếu như giống tốt, mạ khoẻ, khi cây lúa cần nước ta cung cấp đầy đủ, cần phân bón ta bón phân đầy đủ, cần chăm sóc ta chăm sóc chu đáo… thì tất nhiên năng suất lúa sẽ cao. Nhưng kết quả thu hoạch còn phụ thuộc vào các yếu tố ngẫu nhiên bên ngoài như: bão, lụt v.v.. 

Khi nghiên cứu cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, cần lưu ý phân biệt chúng với phạm trù cái chung, nguyên nhân và tính quy luật. Có người đồng nhất phạm trù tất nhiên với cái chung vì họ cho rằng cả cái tất nhiên và cái chung đều được quy định bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật, nhưng có cái chung chỉ là thuộc tính được lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật riêng lẻ. Do vậy, có cái chung là cái tất nhiên, nhưng có cái chung chỉ là cái ngẫu nhiên. Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều có nguyên nhân, trong đó tất nhiên là do nguyên nhân bên trong quyết định, còn ngẫu nhiên là tác động của nguyên nhân bên ngoài. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật, trong đó tất nhiên tuân theo loại quy luật động lực. Quy luật động lực là loại quy luật mà trong đó quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân xác định và điều kiện xác định, sẽ có một kết quả xác định xảy ra. Vì vậy, nếu biết được nguyên nhân xác định và điều kiện xác định, người ta có thể xác định đựơc chính xác kết quả xảy ra. Còn ngẫu nhiên tuân theo loại quy luật thống kê. Quy luật thống kê là loại quy luật mà trong đó quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là qua hệ đa trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân ban đầu, kết quả có thể xảy ra như thế này hoặc như thế khác. Vì vậy, nếu biết được nguyên nhân ban đầu người ta không thể xác định được chính xác kết quả xảy ra mà chỉ có thể dự đoán với một xác suất nhất định. 

2. Mối quan hệ biện chứng 

Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với với ý thức con người. 

Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, còn ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển đo, làm cho nó diễn ra nhanh hoặc chậm. Vì vậy, C.Mác cho rằng lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu như cái ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả. Điều đó có nghĩa là cái ngẫu nhiên chính là một bộ phận trong tiến trình phát triển chung của sự vật, hiện tượng. Sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra nhanh hoặc chậm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên. Ví dụ, cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng phát triển của phong trào nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hay chậm. 

Hai là, tuy tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập với nhau dưới dạng thuần tuý. 

Nghĩa là không có cái tất nhiên thuần tuý và cái ngẫu nhiên thuần tuý, chúng tồn tại trong mối liên hệ thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ, cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên để thể hiện ra, còn ngẫu nhiên chính là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho tất nhiên. Điều đó có nghĩa là cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển, nhưng khuynh hướng phát triển ấy khi bộc lộ thì bao giờ cũng bộc lộ ra dưới hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung chứ không có cách bộc lộ nào khác. Bản thân cái tất nhiên ấy chỉ có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên. Những cái gì ta thấy trong hiện thực và cho là ngẫu nhiên thì đều không phải là cái ngẫu nhiên thuần tuý mà là cái ngẫu nhiên bao hàm cái tất nhiên, đằng sau chúng bao giờ cũng ẩn nấp cái tất nhiên nào đó.

Ví dụ, tai nạn giao thông xảy ra trên một đoạn đường nào đó là ngẫu nhiên. Nhưng nếu đoạn đường đó liên tiếp xảy ra tai nạn, vậy thì đằng sau vô số cái ngẫu nhiên ấy ẩn giấu một cái tất nhiên nào đấy. Có thể do đoạn đường này quá hẹp, địa hình bị nhà cửa che khuất, không có biển báo từ xa nên tai nạn xảy ra là tất nhiên. Nhưng cái tất nhiên không thể tồn tại thuần tuý mà nó được bộc lộ thông qua từng trường hợp tai nạn cụ thể, ngẫu nhiên, xảy ra thường xuyên trên đoạn đường này.

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau khi thay đổi mối quan hệ, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính chất tương đối. 

Điều đó thể hiện ở chỗ, có cái thông qua những mặt này hay trong mối quan hệ này là cái ngẫu nhiên, nhưng thông qua những mặt khác hay trong mối quan hệ khác thì lại là biểu hiện của cái tất nhiên và ngược lại. Do vậy, muốn biết cái gì là tất nhiên hay ngẫu nhiên chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ xác định. Chúng ta cần lưu ý tới đặc điểm này để tránh cái nhìn cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện tượng.

Ví dụ, vào cuối xã hội công xã nguyên thuỷ, việc trao đổi vật này lấy vật khác là một  việc hoàn toàn ngẫu nhiên. Vì khi đó mỗi công xã sản xuất ra chỉ đủ riêng cho mình dùng. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động mà người ta sản xuất được nhiều sản phẩm hơn và bắt đầu có sản phẩm dư thừa; khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên bình thường và ngày càng trở thành một hiện tượng tất nhiên trong xã hội. 

3.  Ý nghĩa phương pháp luận

Nếu như cái tất nhiên là cái gắn bó với bản chất của sự vật, là cái nhất định phải xảy ra theo quy luật nội tại của nó, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất của sự vật, là cái có thể xảy ra hoặc không xảy ra thì trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên và dừng lại ở cái ngẫu nhiên. Mặt khác, cái ngẫu nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật làm cho nó diễn ra nhanh hoặc chậm, cho nên chúng ta không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, coi nhẹ cái ngẫu nhiên, đúng như C.Mác đã khuyến cáo: “lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu như cái ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả”. 

Vì cái tất nhiên vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên để thể hiện ra, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời  là cái bổ sung cho tất nhiên, cho nên, muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Trong số những cái ngẫu nhiên, con người phải tìm cho được cái ngẫu nhiên có lợi, cố định lại để biến nó thành cái tất nhiên, và phải tìm cho ra cái ngẫu nhiên có hại, tạo điều kiện để loại trừ nó. 

Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau, vì vậy, không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật hiện tượng. Để xác định cái gì là tất nhiên hay ngẫu nhiên chúng ta phải đặt nó trong một quan hệ xác định. 

1. Khái niệm 

Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình hợp thành cơ sở tồn tại và phát triển của sự vật. 

Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức và kết cấu của nội dung.

Ví dụ, nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế bào, các bộ phận cơ thể, các khí quan cảm giác, các hệ thống v.v. tạo thành cơ thể đó. Còn hệ thống các mối liên hệ giữa các tế bào, các bộ phận cơ thể, các khí quan, các hệ thống, các quá trình sinh, hóa, lý diễn ra trong nó là hình thức của cơ thể.

Sự vật, hiện tượng nào cũng có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài, giữa hai loại hình thức này thì hình thức bên trong là quyết định. Theo cách định nghĩa ở trên đây về hình thức, ta thấy hình thức không phải là một cái gì ở mặt ngoài của sự vật, ở mặt ngoài nội dung của nó. Vì vậy, phép biện chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung. Ví dụ, nội dung của một tác phẩm văn học là toàn bộ các sự kiện, các nhân vật của đời sống hiện thực mà tác phẩm đó phản ánh; hình thức bên trong của tác phẩm đó là bút pháp nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, bố cục tác phẩm v.v.; còn hình thức bên ngoài của tác phẩm là màu sắc trang trí bìa, kiểu chữ, khổ chữ v.v.. Yếu tố tạo nên giá trị của một tác phẩm văn học ngoài nội dung ra thì chủ yếu là do hình thức bên trong của nó quyết định.

2. Mối quan hệ biện chứng 

Một là, sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.

Nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có một hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định, cũng như không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định, nội dung nào đòi hỏi hình thức đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì nội dung là toàn bộ những mặt, những yếu tố, những quá trình hợp thành cơ sở tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức kết cấu của nội dung. Điều đó có nghĩa là các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Vì vậy, nội dung và hình thức không bao giờ tách rời nhau được.

Tuy nhiên, khi khẳng định nội dung và hình thức tồn tại không tách rời nhau, không có nghĩa là chúng ta khẳng định một nội dung bao giờ cũng chỉ gắn liền với  một hình thức nhất định, và một hình thức luôn luôn chỉ chứa đựng một nội dung nhất định. Cùng một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Ví dụ, nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, về nội dung, là chuyên chính của đa số, nhưng có thể có nhiều hình thức thể hiện như công xã Pari, nhà nước xô viết hay nhà nước dân chủ nhân dân. Ngược lại, cùng một hình thức văn nghệ dân tộc nhưng trong chế độ cũ nó mang nội dung tư tưởng lạc hậu, thậm chí phản động, còn dưới chủ nghĩa xã hội, nó mang nội dung tư tưởng tiến bộ cách mạng.

Hai là, nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự vật.

Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất của sự vật, khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi. Hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật, khuynh hướng chủ đạo của hình thức là ổn định, chậm biến đổi hơn nội dung. Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung sẽ kéo theo sự biến đổi của hình thức cho phù hợp với nó. Ví dụ, trong mỗi phương thức sản xuất, thì lực lượng sản xuất là nội dung, và quan hệ sản xuất là hình thức. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn luôn biến đổi. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất đến một mức độ nào đó sẽ mâu thuẫn  sâu sắc với quan hệ sản xuất; quan hệ sản xuất do biến đổi chậm hơn, và lúc này trở nên lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để giải phóng và phát triển hơn nữa lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải phá bỏ quan hệ sản xuất cu, thay vào đó là quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Như vậy, sự biến đổi của nội dung quy định sự biến đổi hình thức.

Ba là, sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung.

Tuy nội dung quyết định hình thức, nhưng hình thức không thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung, hình thức có tính độc lập tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với yêu cầu phát triển của nội dung thì nó thúc đẩy nội dung phát triển; và nếu ngược lại, thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. Ví dụ, trong các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp đối kháng, lúc đầu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, là hình thức phát triển của nó. Nhưng do lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất trở thành lạc hậu không còn phù hợp với lực lượng sản xuất và bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự không phù hợp ấy tiếp tục tăng lên và cuối cùng dẫn đến xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cho cách mạng xã hội nổ ra. Cuộc cách mạng ấy thủ tiêu quan hệ sản xuất cũ và thay vào đó quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, nó trở thành yếu tố thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.

Bốn là, nội dung và hình thức có thể chuyển hóa cho nhau.

Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức còn biểu hiện ở sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Cái trong điều kiện này hay quan hệ này là nội dung thì trong điều kiện khác hay quan hệ khác là hình thức, và ngược lại. Ví dụ, trong mối quan hệ với tác phẩm văn học thì việc trang trí màu sắc, kiểu chữ, hình ảnh trên bìa tác phẩm là hình thức bên ngoài của tác phẩm, nhưng xét trong quan hệ khác, việc trang trí màu sắc, kiểu chữ, hình ảnh trên bìa của một tác phẩm như thế nào lại là nội dung công việc của người họa sỹ trình bày, vẽ bìa.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

Vì nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, cho nên chúng ta không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức, đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức. Do cùng một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện và một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau, cho nên, trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tận dụng mọi loại hình thức có thể có, kể cả một số hình thức cũ để phục vụ cho nội dung mới, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.

Vì nội dung giữ vai trò quyết định với hình thức, nhưng hình thức lại có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung, cho nên để nhận thức và cải tạo sự vật, trước hết chúng ta phải căn cứ vào nội dung, mặt khác phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung với hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển. Không nên cứng nhắc khi xem xét nội dung và hình thức, để xác định cái gì là nội dung cái gì là hình thức chúng ta phải đặt nó trong một quan hệ xác định.

Ý kiến