Tóm tắt điểm mới Luật sở hữu trí tuệ 2022
Ngày 16/6/2022, Quốc hội đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành cho phù hợp với tình hình thực tiễn và định hướng phát triển đất nước.
Dưới đây là những điểm mới tại Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 so với quy định trước đây:
THÊM TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG TÁC PHẨM KHÔNG PHẢI TRẢ TIỀN BẢN QUYỀN
Theo Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 thì các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
– Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
(Hiện hành, tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân)
– Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
(Nội dung mới bổ sung)
– Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy.
Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
– Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
(Nội dung mới bổ sung)
– Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
– Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ;
Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ,
Trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
(So với Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009), bổ sung điều kiện đối với trường hợp sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại)
– Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
– Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;
– Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
– Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
(Nội dung mới bổ sung)
– Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
– Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 25a Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022.
(Nội dung mới bổ sung)
ĐIỂM MỚI VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP VĂN BẰNG BẢO HỘ BỊ HỦY BỎ
– Trường hợp bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực:
+ Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu; (Điểm mới)
+ Đơn đăng ký sáng chế được nộp trái với quy định về kiểm soát an ninh đối với sáng chế quy định tại Điều 89a Luật Sở hữu trí tuệ; (Điểm mới)
+ Đơn đăng ký sáng chế đối với sáng chế được trực tiếp tạo ra dựa trên nguồn gen hoặc tri thức truyền thống về nguồn gen nhưng không bộc lộ hoặc bộc lộ không chính xác về nguồn gốc của nguồn gen hoặc tri thức truyền thống về nguồn gen có trong đơn đó. (Điểm mới)
– Trường hợp bị hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần hiệu lực:
Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần hiệu lực nếu toàn bộ hoặc một phần văn bằng bảo hộ đó không đáp ứng quy định Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đăng ký, điều kiện bảo hộ, sửa đổi, bổ sung đơn, bộc lộ sáng chế, nguyên tắc nộp đơn đầu tiên trong các trường hợp sau đây:
+ Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được người có quyền đăng ký chuyển nhượng quyền đăng ký đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu;
(So với hiện hành, thêm quy định trường hợp nêu trên có thể bị hủy bỏ một phần hiệu lực)
+ Đối tượng sở hữu công nghiệp không đáp ứng các điều kiện bảo hộ quy định tại Điều 8 và Chương VII Luật Sở hữu trí tuệ;
(So với hiện hành, thêm quy định trường hợp nêu trên có thể bị hủy bỏ một phần hiệu lực)
+ Việc sửa đổi, bổ sung đơn đăng ký sở hữu công nghiệp làm mở rộng phạm vi đối tượng đã bộc lộ hoặc nêu trong đơn hoặc làm thay đổi bản chất của đối tượng yêu cầu đăng ký nêu trong đơn; (Điểm mới)
+ Sáng chế không được bộc lộ đầy đủ và rõ ràng đến mức căn cứ vào đó người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được sáng chế đó; (Điểm mới)
+ Sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ vượt quá phạm vi bộc lộ trong bản mô tả ban đầu của đơn đăng ký sáng chế; (Điểm mới)
+ Sáng chế không đáp ứng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên quy định tại Điều 90 Luật Sở hữu trí tuệ. (Điểm mới)
BỔ SUNG QUY ĐỊNH VỀ QUỐC KỲ, QUỐC CA TRONG LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 đã bổ sung một số quy định về Quốc kỳ, Quốc huy như sau:
– Bổ sung vào Điều 7 về giới hạn quyền sở hữu trí tuệ:
Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.
– Bổ sung vào Điều 73 về dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và của các nước, quốc tế ca.
ĐIỂM MỚI VỀ QUY ĐỊNH ĐỒNG TÁC GIẢ
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định về tác giả, đồng tác giả như sau:
– Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm.
Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả.
(Hiện hành, tại Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định đồng tác giả là những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học).
– Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả.
– Việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả phải có sự thỏa thuận của các đồng tác giả, trừ trường hợp tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác hoặc luật khác có quy định khác.
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ QUYỀN TÁC GIẢ
Theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về quyền nhân thân và quyền tác giả gồm các quyền sau đây:
– Đặt tên cho tác phẩm;
– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
– Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Tuy nhiên, theo khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 thì tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản.
Như vậy, nếu như trước đây tác giả chỉ có thể chuyển giao 1 quyền nhân thân duy nhất là quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm thì kể từ ngày 01/01/2023 (Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có hiệu lực), tác giả có thể chuyển giao thêm quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản.
Ngoài ra, khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 cũng làm rõ hơn quyền tài sản của tác giả. Các quyền tài sản này bao gồm:
– Làm tác phẩm phái sinh;
– Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
– Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
– Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối;
– Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;
– Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.
Các quyền tài sản nói trên do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện.